Người lãnh đạo (2/3)
Hôm sau, tất cả những ai có can đảm tham gia cuộc hành trình dài đều tập hợp lại. Hơn hai trăm gia đình đã đến nơi được chỉ định. Chỉ có một số ít ở nhà để chăm sóc người già.
Thật sự rất đáng buồn khi nhìn vào đám đông những người khốn khổ mà bất hạnh cay đắng kia đã buộc phải từ bỏ vùng đất nơi họ sinh ra, cũng là nơi chôn cất ngôi mộ của tổ tiên họ. Khuôn mặt họ hốc hác, mệt mỏi và cháy nắng. Sự đau khổ của nhiều năm lao động dài đã gây ảnh hưởng lớn lên họ và truyền tải một bức tranh đau khổ và tuyệt vọng cay đắng. Nhưng ngay lập tức, đã thấy tia hy vọng đầu tiên – xen lẫn nỗi nhớ nhà. Một giọt nước mắt chảy xuống khuôn mặt nhăn nheo của một người già thở dài tuyệt vọng và lắc đầu trước không khí báo hiệu ác quỷ. Ông thà trụ lại thêm một thời gian để rồi chết giữa những tảng đá này thay vì tìm kiếm một quê hương tốt hơn. Nhiều người phụ nữ lớn tiếng than thở và tạm biệt những người thân yêu đã chết của mình, những ngôi mộ mà họ sẽ bỏ lại.
Những người đàn ông cố gắng khơi dậy lòng dũng cảm và hét lên, – Nào, mọi người có muốn tiếp tục chết đói ở vùng đất chết tiệt này và sống trong những lán lợp này hay không? – Thật ra hơn ai hết họ muốn đem theo cả lãnh thổ bị nguyền rủa này bên mình nếu có thể.
Có tiếng ồn ào và la hét trong từng nhóm nhỏ. Cả đàn ông và phụ nữ đều bồn chồn. Những đứa trẻ được địu trên lưng mẹ đang la hét. Ngay cả gia súc cũng có chút khó chịu. Không có quá nhiều gia súc, một con bê ở đây và sau đó là một con chó gầy gò, xù xì với cái đầu to và đôi chân mập, chúng đang tải những tấm thảm cũ, tay nải và thậm chí hai bao tải trên yên cương, con vật tội nghiệp lắc lư vì trọng lượng lớn. Tuy nhiên nó vẫn trụ được và đôi lúc lại hú lên. Những người khác đang tải đồ đạc lên con lừa; những đứa trẻ thì kéo chó bằng dây xích. Nói chuyện, la hét, chửi bới, khóc lóc, rên rỉ, sủa rền, hú vang – ầm ĩ xung quanh. Ngay cả con lừa cũng thỉnh thoảng kêu be be. Nhưng người lãnh đạo không nói một lời, như thể toàn bộ sự việc không phải là việc của y. Một người đàn ông khôn ngoan thực sự!
Y chỉ ngồi yên và im lặng, đầu cúi xuống. Đôi lúc y khạc nhổ; và chỉ có thế. Nhưng hành vi kỳ lạ của y càng khiến danh tiếng y tăng lên đến mức, tất cả sẵn sàng lao vào nước sôi lửa bỏng, như lời họ nói, vì y. Nghe thấy trong đám đông nói thế này:
– Chúng ta nên hạnh phúc khi tìm thấy một người đàn ông như vậy. Chúa sẽ không cho ta tiến bước mà không có ngài! Chúng ta sẽ chết. Ngài có trí thông minh thực sự, tôi đã bảo rồi! Ngài luôn im lặng. Ngài không nói một lời nào! – người đó vừa nói vừa nhìn người lãnh đạo với sự kính trọng và tự hào.
– Ngài nên nói gì cơ chứ? Ai nói nhiều thì thường không nghĩ nhiều. Ngài là người đàn ông thông minh, chắc chắn đấy! Ngài chỉ suy ngẫm và không nói gì, – thêm một người khác góp lời, và anh ta cũng nhìn người lãnh đạo với sự kinh sợ.
– Dẫn dắt rất nhiều người như này là không dễ đâu! Ngài phải tập trung suy nghĩ vì ngài gánh vác trọng trách lớn trong tay, – người đầu tiên đáp lại.
Đã đến lúc bắt đầu. Tuy nhiên, họ lại đợi một lúc để xem liệu có ai khác sẽ thay đổi ý định và đi cùng họ không, nhưng vì không có thêm ai, họ không thể nán lại nữa.
– Ta có nên khởi hành? – họ hỏi người lãnh đạo.
Y đứng dậy mà không nói một lời.
Những người đàn ông can đảm nhất lập tức tập hợp xung quanh y để sẵn sàng cho trường hợp nguy hiểm hoặc khẩn cấp.
Người lãnh đạo cau mày, cúi đầu xuống, bước vài bước, vung gậy trước mặt mình một cách trang nghiêm. Nhóm người di chuyển theo phía sau y và chốc chốc hét lớn, “Lãnh đạo vạn tuế!” Y bước thêm vài bước và va vào hàng rào trước hội trường làng. Đến đó, tự nhiên, y dừng lại; nên cả nhóm cũng dừng lại. Người lãnh đạo sau đó lùi lại một chút và đập cây gậy của mình lên hàng rào nhiều lần.
– Ngài muốn chúng tôi làm gì? – họ hỏi.
Y chẳng nói gì.
– Chúng ta nên làm gì? Đạp đổ hàng rào xuống! Chúng ta sẽ làm thế! Mọi người không thấy ngài ấy đã chỉ cho ta phải làm gì bằng cây gậy hay sao? – những người đứng quanh người lãnh đạo hét lớn.
– Có cổng mà! Có cổng mà! – những đứa trẻ la lên và chỉ vào cánh cổng ở đối diện họ.
– Suỵt, yên nào, mấy đứa!
– Cầu Chúa phù hộ, chuyện gì đây? – vài người phụ nữ làm dấu cầu nguyện.
– Không nhiều lời! Ngài ấy biết phải làm gì. Đạp đổ hàng rào!
Ngay lập tức hàng rào đổ xuống như thể chưa từng ở đó.
Họ băng qua hàng rào.
Chưa đi được một trăm bước thì người lãnh đạo chạy vào một bụi gai lớn và dừng lại. Rất khó khăn, y cố gắng tự kéo mình ra và sau đó bắt đầu gõ gậy xuống theo mọi hướng. Không một ai nhúc nhích.
– Giờ lại làm sao đây? – những người ở phía sau hét lên.
– Cắt bỏ bụi gai! – những người đứng quanh người lãnh đạo gào lớn.
– Có đường đi mà, đằng sau bụi gai! Có đường đi! – những đứa trẻ và cả những người ở phía sau hét lên.
– Có đường đi mà! Có đường đi mà! – những người xung quanh chế nhạo, nhại lại một cách giận dữ. – Thế rồi người trần mắt thịt chúng ta đâu biết ngài đang dẫn lối đến đâu? Mọi người không được ra mệnh lệnh. Người lãnh đạo biết con đường tốt nhất và nhanh nhất. Cắt bỏ bụi gai!
Họ lao vào dọn đường.
– Oái, – ai đó bị gai đâm vào tay còn người khác bị cành dâu đen xước qua mặt thốt lên tiếng khóc.
– Các anh em, chúng ta không thể há miệng chờ sung. Cần chịu khổ một chút để đạt đến thành công, – người can đảm nhất nhóm lên tiếng.
Họ đã dẹp bỏ bụi rậm hoàn toàn sau nhiều nỗ lực và tiếp tục đi về phía trước.
Sau khi lang thang xa hơn một chút, họ gặp rất nhiều thân cây. Số phận tương tự, chúng bị ném sang một bên. Rồi họ tiếp tục.
Ngày đầu tiên họ không đi được bao xa vì phải vượt qua một số chướng ngại vật kiểu thế. Và lại chỉ được ăn một chút thức ăn mà thôi vì một số người chỉ mang bánh mì khô cùng ít phô mai, một số người khác thì chỉ có ít bánh mì để thỏa mãn cơn đói. Có những người còn không có gì cả. May thay bây giờ là mùa hè nên trên đường họ tìm thấy một cây ăn quả.
Do đó, mặc dù ngày đầu tiên chỉ đi được một đoạn ngắn, họ cảm thấy rất mệt mỏi. Không có mối nguy hiểm lớn nào xuất hiện và cũng không có tai nạn gì. Đương nhiên, một lượng lớn các sự kiện sau đây phải được coi là chuyện vặt: một phụ nữ bị gai đâm vào mắt trái, giờ đang đắp tạm một miếng vải ẩm; một đứa trẻ va vào khúc gỗ và đi khập khiễng; một ông già vấp phải bụi cây dâu đen và bị bong gân mắt cá chân; sau khi đắp hành tây băm lên, người đàn ông dũng cảm chịu đựng cơn đau và chống gậy, khập khiễng tiến về phía trước kiên cường theo sau người lãnh đạo. (Chuyện là, một số người bảo rằng ông già nói dối về mắt cá chân, rằng ông ta chỉ giả vờ vì rất muốn quay trở lại.) Chỉ một số ít người là không bị gai đâm vào tay hoặc mặt. Những người đàn ông chịu đựng tất cảmột cách anh hùng và những người phụ nữ nguyền rủa từng giờ từng phút kể từ khi rời đi, còn những đứa trẻ khóc không ngừng, âu cũng là chuyện hiển nhiên, vì họ không hiểu tất cả những điều tồi tệ này và nỗi đau này liệu có được đền đáp xứng đáng.
Dù cho cảm xúc của mọi người thế nào, thì người lãnh đạo vẫn chẳng cảm thấy gì cả. Thành thật mà nói, nói thẳng ra thì, y đã được bảo vệ rất nhiều, nhưng dù sao người đàn ông đó đơn giản là may mắn mà thôi. Trong đêm đầu tiên tại khu cắm trại, mọi người cầu nguyện và cảm ơn Chúa rằng cuộc hành trình ban ngày thành công và không có chuyện gì, dù chỉ là bất hạnh nhỏ nhất, xảy ra với người lãnh đạo. Sau đó, một trong số những người đàn ông dũng cảm nhất lên tiếng. Khuôn mặt anh bị trầy xước bởi một bụi cây dâu đen, nhưng anh không hề bận tâm.
– Các anh em, – anh ta nói. – Chuyến hành trình một ngày đã thành công, tạ ơn Chúa. Con đường không hề dễ dàng, nhưng ta phải vượt qua bởi tất cả chúng ta đều biết rằng con đường khó khăn này sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Cầu mong Chúa toàn năng bảo vệ người lãnh đạo của ta khỏi mọi tổn hại để ngài tiếp tục dẫn dắt ta thành công.
– Ngày mai tôi sẽ mất nốt con mắt còn lại nếu mọi thứ diễn ra như hôm nay! – một phụ nữ thốt lên giận dữ.
– Oái, chân tôi! – ông lão khóc, theo đà của người phụ nữ vừa phát biểu.
Những đứa trẻ cứ rên rỉ và khóc, các bà mẹ rất vất vả dỗ chúng yên để tiếp tục nghe người phát ngôn.
– Phải, bà sẽ mất con mắt kia, – anh ta rống lên giận dữ, – và có thể mù cả hai con mắt! Một người phụ nữ mất đi đôi mắt vì mục đích lớn lao ấy thì không phải là bất hạnh. Đáng thẹn thay! Bà có bao giờ nghĩ về hạnh phúc của con mình không? Một nửa trong chúng ta hy sinh cho đại cuộc! Sẽ tạo nên điều khác biệt gì? Một con mắt nào cơ? Đôi mắt của bà có ích gì khi đã có người đang tìm kiếm chúng ta và dẫn chúng ta đến hạnh phúc? Chúng ta có nên từ bỏ chuyện này chỉ vì mắt của bà và chân của ông lão không?
– Lão nói dối đấy! Ông lão nói dối! Ông ta giả vờ để quay lại thôi, – tiếng nói vang dội từ mọi phía.
– Các anh em, những ai không muốn đi xa hơn nữa, – người phát ngôn lại cất lời, – thì hãy quay trở lại chứ đừng phàn nàn và khuấy động những người còn lại. Còn tôi, tôi sẽ đi theo người lãnh đạo khôn ngoan này chừng nào vẫn còn chút hơi tàn cuối cùng!
– Tất cả sẽ đi! Tất cả chúng ta sẽ đi theo ngài chừng nào ta còn sống!
Người lãnh đạo yên lặng.
Mọi người bắt đầu nhìn y và thì thầm:
– Ngài đang mải mê suy nghĩ!
– Thật thông thái!
– Hãy nhìn vầng trán ngài!
– Lúc nào cũng chau lại!
– Thật nghiêm nghị!
– Ngài rất dũng cảm! Chỉ cần nhìn ngài là biết.
– Nói rất đúng! Hàng rào, thân cây, cây thạch nam – ngài băng qua tất cả. Ngài chỉ buồn bã gõ gậy, không nói gì cả, và ta phải đoán ngài đang nghĩ gì.
Người lãnh đạo (1/3)
– Hỡi anh em và bạn bè, tôi đã lắng nghe lời của các anh em, bây giờ tôi yêu cầu mọi người lắng nghe tôi nói. Tất cả những thảo luận và trò chuyện của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì nếu ta vẫn trong khu vực cằn cỗi này. Trên vùng đất đầy cát và trên những tảng đá này, ta không thể trồng trọt ngay cả trong những năm nhiều mưa, chứ chưa nói là hạn hán như thế này, một đợt hạn hán mà chúng ta trước nay chưa từng thấy.
Ta sẽ còn tập trung để nói những chuyện vô ích như thế này bao lâu nữa? Gia súc đang chết dần vì không có thức ăn, và chúng ta cũng sẽ sớm chết đói. Chúng ta phải tìm một giải pháp khác tốt hơn và hợp lý hơn. Tôi nghĩ rằng tốt nhất là rời khỏi vùng đất khô cằn này và đi ra thế giới ngoài kia, tìm mảnh đất tốt và màu mỡ hơn đơn giản bởi vì chúng ta không thể sống như thế này nữa.
Thế đó, một cư dân đến từ vùng cằn cỗi nào đó từng có lần nói bằng giọng mệt mỏi trong cuộc họp. Tôi nghĩ, ở đâu và khi nào chẳng liên quan gì đến các anh em và tôi. Điều quan trọng là tôi tin rằng nó đã xảy ra ở đâu đó tại một vùng đất nào đó từ lâu, thế là được rồi. Thành thật mà nói, đã có lúc tôi nghĩ rằng bằng cách nào đó mình đã bịa ra toàn bộ câu chuyện này, nhưng dần dần tôi đã giải thoát bản thân khỏi sự si mê khó chịu này. Bây giờ tôi tin chắc rằng tôi có liên quan đến những gì đôi khi thực sự đã xảy ra và phải xảy ra ở đâu đó, và không bao giờ có thể nào là do tôi bịa ra.
Những người lắng nghe, với khuôn mặt nhợt nhạt, hốc hác và ánh mắt trống rỗng ảm đạm, gần như không thể nắm bắt, hai tay đặt dưới thắt lưng, bỗng trở nên sống động trước những lời nói thông thái này. Mỗi người đều tưởng tượng rằng mình đang ở vùng đất kỳ diệu nào đó, vùng đất thiên đường nơi phần thưởng của khai hoang là một vụ mùa bội thu.
– Đúng đấy! Đúng đấy! – những giọng nói mệt mỏi thì thầm từ mọi phía.
– Nơi đó có gầ…n…khô…ng? – một tiếng thì thầm kiệt quệ vang lên từ góc nào đó.
– Các anh em! – ai đó lên tiếng bằng giọng mạnh mẽ hơn. – Chúng ta cần nghe theo lời khuyên này ngay lập tức vì ta không thể cứ như này mãi được nữa. Chúng ta đã làm lụng cần cù và vất vả, nhưng tất cả đều vô vọng. Ta đã gieo hạt giống để dùng làm thực phẩm, nhưng lũ lụt đến quét trôi hạt giống và đất khỏi các sườn dốc, chỉ còn trơ lại đá. Ta có nên ở lại đây mãi và lao động từ sáng đến tối để rồi vẫn đói khát, trần truồng và đi chân đất hay không? Ta phải lên đường và tìm kiếm mảnh đất tốt hơn và màu mỡ hơn, để những lao động vất vả và chăm chỉ của ta được trả công bằng mùa màng bội thu.
– Đi thôi! Hãy đi ngay thôi vì nơi này không còn thích hợp để sinh sống nữa!
Lời thì thầm ngày một tăng, từng người bắt đầu bước đi dù không biết mình sẽ đi đâu.
– Hãy khoan, các anh em! Các anh em đang đi về đâu? – người lúc nãy lại lên tiếng. – Tất nhiên là ta phải đi, nhưng không phải như thế này. Ta phải biết nơi mình sẽ đến. Nếu không, ta có thể sẽ rơi vào tình huống tồi tệ hơn và không thể sinh tồn. Tôi đề nghị ta hãy chọn ra một người lãnh đạo để tất cả cùng tuân theo, người đó sẽ chỉ cho chúng ta đường đi tốt nhất và nhanh nhất.
– Chọn đi! Hãy chọn ai đó ngay đi, – xung quanh đồng loạt vang lên.
Thế là sinh ra tranh cãi, một sự hỗn loạn thực sự. Mọi người chỉ nói mà không nghe ai, và không ai nghe. Họ bắt đầu chia ra thành từng nhóm, mỗi người lầm bầm với chính mình, và rồi chính những nhóm đó cũng tan vỡ. Bắt cặp hai người một, họ bắt đầu nói bằng cánh tay, nói chuyện và cố gắng chứng minh điều gì đó, kéo tay áo nhau và ra hiệu im lặng bằng tay. Rồi tất cả lại tập hợp lại, vẫn nói liên tục.
– Hỡi các anh em! – đột nhiên, một giọng nói mạnh mẽ hơn nhấn chìm tất cả những giọng nói khàn khàn khác. – Ta sẽ không đi đến thống nhất nếu cứ như thế này. Mọi người chỉ nói và không ai nghe. Hãy chọn một người lãnh đạo! Có thể chọn ai trong số chúng ta đây? Ai trong chúng ta đã đi đủ nhiều để biết rõ những con đường? Tất cả chúng ta đều biết rõ lẫn nhau, nhưng tôi đây cũng sẽ không đặt bản thân và các con dưới sự lãnh đạo của bất cứ ai tại đây. Thay vào đó, hãy nói xem có ai biết du khách đằng kia không, người đó đã ngồi trong bóng râm bên lề đường từ sáng tới giờ?
Im lặng bao trùm. Tất cả quay về hướng người lạ và cẩn thận đánh giá y từ đầu đến chân.
Người lữ khách khoảng trung niên, với khuôn mặt uể oải, bộ râu ẩn hiện cùng mái tóc dài, ngồi im lặng không suy suyển, mải mê suy nghĩ và thỉnh thoảng gõ cây gậy lớn lên mặt đất.
– Hôm qua tôi thấy y cùng một cậu bé. Họ nắm tay nhau đi xuống đường. Và đến đêm qua thì cậu bé rời làng nhưng người lạ đó vẫn ở lại đây.
– Hỡi anh em, hãy quên những chuyện vặt vãnh ngu ngốc này đi, ta không nên mất thời gian hơn nữa. Dù y là ai, y cũng đến từ nơi rất xa vì không ai trong chúng ta biết y cả, và y chắc chắn biết con đường ngắn nhất và tốt nhất để dẫn chúng ta đi. Tôi phán đoán rằng y là một người rất khôn ngoan vì y luôn ngồi im lặng và suy nghĩ. Nếu là người khác, họ hẳn đã tham gia vào vấn đề của chúng ta hơn chục lần rồi hoặc bắt chuyện với ai đó trong số chúng ta, nhưng y đã ngồi đó suốt một mình và không nói gì.
– Tất nhiên, người đàn ông đó ngồi yên lặng vì y đang nghĩ gì đó. Nếu không phải vì thông minh thì có thể là gì nữa, – những người khác đồng tình và bắt đầu soi xét người lạ một lần nữa. Từng người phát hiện ra từng đặc điểm tuyệt vời trong y, từng bằng chứng về trí thông minh phi thường của y.
Không có nhiều thời gian để nói suông, vì vậy cuối cùng tất cả đều đồng ý rằng tốt nhất nên hỏi người khách lữ hành này – người mà đối với họ, dường như là do Thiên Chúa phái đến để dẫn họ ra thế giới ngoài kia, để tìm kiếm một lãnh thổ tốt hơn và đất đai màu mỡ hơn. Y nên là người lãnh đạo của họ, và họ sẽ lắng nghe y và vâng lời y mà không nghi ngại.
Họ chọn ra mười người đàn ông d gặp người lạ để giải thích quyết định của họ cho y. Nhóm người đại diện này sẽ trình bày cho y thấy tình trạng khốn khổ hiện tại và yêu cầu y làm lãnh đạo của họ.
Thế là mười người đi qua đó và cúi đầu khiêm nhường. Một trong số họ bắt đầu nói về vùng đất cằn cỗi của khu vực, về những năm khô hạn và sự khốn khổ mà tất cả họ đều phải chịu. Người đó kết thúc lời trình bày như sau:
– Những điều kiện này buộc chúng tôi phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình và đi ra ngoài thế giới để tìm một quê hương tốt hơn. Ngay lúc này khi chúng tôi cuối cùng đạt được thỏa thuận, có vẻ như Chúa đã tỏ lòng thương xót chúng tôi, rằng Người đã gửi ngài đến cho chúng tôi – chính ngài, một người xa lạ khôn ngoan và xứng đáng – và rằng ngài sẽ dẫn dắt chúng tôi và giải thoát chúng tôi khỏi sự khốn khổ này. Nhân danh tất cả cư dân ở đây, chúng tôi đề nghị ngài trở thành người lãnh đạo. Bất cứ nơi nào ngài đi, chúng tôi sẽ theo đó. Ngài biết đường và chắc chắn ngài được sinh ra ở một quê hương hạnh phúc và tốt đẹp hơn. Chúng tôi sẽ lắng nghe ngài và tuân theo từng mệnh lệnh của ngài. Chính ngài, một người lạ khôn ngoan, sẽ đồng ý cứu rất nhiều linh hồn khỏi sự hủy hoại chứ? Ngài sẽ là người lãnh đạo của chúng tôi chứ?
Trong suốt bài phát biểu đầy ẩn ý này, người lạ khôn ngoan không hề ngẩng đầu lên. Y ở yên tư thế như lúc đầu họ tìm đến y. Đầu y cúi xuống, y cau mày, và không nói gì cả. Thỉnh thoảng y chỉ gõ gậy trên mặt đất và – nghĩ. Khi bài phát biểu kết thúc, y lẩm bẩm cộc lốc và chậm rãi mà không thay đổi tư thế của mình:
– Tôi đồng ý!
– Chúng tôi có thể đi theo ngài để tìm kiếm một nơi tốt hơn không?
– Được! – y tiếp tục nói mà không ngẩng đầu lên.
Lòng nhiệt thành và bày tỏ cảm kích trào dâng, nhưng người lạ mặt không nói một lời nào.
Mười người thông báo cho nhóm người biết họ đã thành công, và thêm rằng cho đến giờ họ mới hiểu người đàn ông này sở hữu trí tuệ tuyệt vời đến thế nào.
– Người đó thậm chí không thay đổi tư thế hoặc ngẩng đầu lên để xem ai đang nói chuyện với mình. Y chỉ ngồi im lặng và thiền. Dù chúng tôi nói rất nhiều và đánh giá cao y, y chỉ thốt ra bốn từ.
– Một nhà hiền triết thực sự! Trí tuệ hiếm có! – họ vui vẻ hét lên từ mọi phía tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã phái một thiên thần từ thiên đường xuống cứu họ. Tất cả đều bị thuyết phục chắc chắn mình sẽ thành công khi có một nhà lãnh đạo như vậy, một người sẽ không bị bất cứ điều gì trên thế giới làm bối rối.
Và vì vậy, họ quyết định lên đường ngay ngày hôm sau lúc bình minh.
Đóng dấu
Tôi đã có một giấc mơ khủng khiếp. Tôi không thắc mắc quá nhiều về giấc mơ, nhưng tôi tự hỏi làm thế nào mà mình có đủ can đảm để mơ về những điều khủng khiếp như thế, trong khi tôi là một công dân thầm lặng và đáng kính, một đứa con ngoan ngoãn của người mẹ Serbia thân yêu và đau khổ, giống như tất cả những đứa con khác của bà. Tất nhiên, bạn biết đấy, nếu tôi là một ngoại lệ thì sẽ khác, nhưng không, bạn thân mến ơi, tôi giống hệt như bao người khác, và cẩn thận trong mọi thứ, không ai có thể sánh được với tôi ở phương diện này. Khi nhìn thấy chiếc nút sáng bóng trên bộ đồng phục cảnh sát trên đường, tôi nhìn chằm chằm vào ánh sáng kỳ diệu đó khi gần như băng qua nhau, đầy những hồi ức ngọt ngào, thế rồi đột nhiên, tay tôi bắt đầu run rẩy và giơ lên chào; đầu tôi cúi xuống đất và miệng nở nụ cười đáng yêu mà tất cả chúng tôi đều cười khi chào hỏi cấp trên.
— Dòng máu cao quý chảy trong huyết quản tôi — chính là như thế! — Đây là những gì tôi nghĩ lúc đó và tôi tỏ vẻ khinh bỉ nhìn kẻ tàn bạo đi qua, bất cẩn dẫm lên cái nút.
— Một tên thú vật! — Tôi nói đầy cay đắng rồi khạc nước bọt, lặng lẽ bước đi, an ủi với ý nghĩ rằng những tên thú vật như vậy có rất ít trên đời; và tôi đặc biệt vui mừng vì Chúa đã ban cho tôi một trái tim tinh tế và dòng máu hào hiệp, cao quý của tổ tiên.
Chà, giờ đã thấy tôi là người đàn ông tuyệt vời thế nào, không khác gì những công dân đáng kính khác, rồi bạn sẽ giống tôi vô cùng băn khoăn tại sao những điều tồi tệ và ngu ngốc như vậy có thể xảy ra trong giấc mơ của tôi.
Không có gì bất thường xảy ra với tôi ngày hôm đó. Tôi đã có một bữa tối ngon miệng và sau đó nhàn hạ ngồi xỉa răng; nhấm nháp chút rượu, và sau khi đã sử dụng quyền công dân một cách dũng cảm và tận tâm như vậy, tôi đi ngủ và đem theo một cuốn sách để vào giấc nhanh hơn.
Cuốn sách sớm tuột khỏi tay tôi, dĩ nhiên sau khi đã thỏa mãn ham muốn của tôi và khi tất cả nhiệm vụ khác đã hoàn thành, tôi ngủ thiếp đi như một con cừu non trong sáng.
Ngay lập tức tôi thấy mình trên một con đường nhỏ hẹp, lầy lội dẫn qua núi. Một đêm đen lạnh lẽo. Cơn gió hú lên giữa những cành cây cằn cỗi và cắt như dao cạo mỗi khi chạm vào làn da trần trụi. Bầu trời đen kịt, câm lặng và đe dọa, hạt tuyết như những hạt bụi thổi vào mắt và đập vào mặt tôi. Không thấy đâu hiệu của linh hồn sống nào cả. Tôi vội vã đi và chốc chốc trượt ngã trên con đường lầy lội lúc thì sang trái, lúc thì sang phải. Tôi lảo đảo và ngã xuống rồi cuối cùng lạc đường, tôi cứ lang thang — Chúa biết đây là đâu — và đó chẳng phải là một đêm ngắn ngủi bình thường, mà dài như một thế kỷ, tôi đi bộ mãi mà không biết mình đang ở đâu.
Cho nên tôi cứ đi mãi nhiều năm trời đến một nơi nào đó xa, rất xa quê hương của tôi, một nơi xa lạ của thế giới, một vùng đất xa lạ mà có lẽ không ai biết đến và tôi chắc chắn chỉ có thể nhìn thấy trong những giấc mơ.
Đi vào vùng đất này tôi đến một thị trấn lớn có rất đông người sinh sống. Trong khu chợ lớn có một đám đông khổng lồ, vang lên tiếng ồn khủng khiếp đủ để chọc thủng màng nhĩ. Tôi vào một quán trọ hướng mặt ra khu chợ và hỏi chủ nhà tại sao rất nhiều người đang tập hợp lại đằng kia…
— Chúng tôi là những người yên tĩnh và đáng kính, — ông ta bắt đầu câu chuyện, – chúng tôi trung thành và vâng lời thị trưởng.
— Thị trưởng là cơ quan tối cao của mọi người sao? — Tôi hỏi, ngắt lời ông ta.
— Thị trưởng kiểm soát nơi đây và là cơ quan tối cao của chúng tôi; tiếp đến là cảnh sát.
Tôi bật cười.
— Sao quý khách lại cười?… Ngài không biết sao?… Ngài từ đâu đến?
Tôi kể rằng mình bị lạc đường, và tôi đến từ một vùng đất xa xôi — Serbia.
— Mình đã nghe về đất nước nổi tiếng đó! — chủ nhà trọ tự nhủ, nhìn tôi với sự tôn trọng, và sau đó ông ta nói lớn:
— Ở đây là thế, — ông ta tiếp tục, — Thị trưởng kiểm soát nơi đây cùng lực lượng cảnh sát.
— Cảnh sát ở đây như thế nào?
— Chà, có nhiều loại cảnh sát khác nhau—họ khác nhau, được phân chia theo thứ hạng. Có những người nổi bật và người ít nổi bật hơn… Chúng tôi ấy mà, ngài biết đấy, là những người trầm tính và đáng kính, nhưng có đủ kẻ du thủ du thực đến từ các khu phố, chúng làm hư chúng tôi và dạy chúng tôi những điều xấu xa. Để phân biệt từng công dân chúng tôi với những kẻ đó, hôm qua Thị trưởng đã ra lệnh rằng tất cả công dân chúng tôi hãy đến Tòa án địa phương, tại đó mỗi người chúng tôi sẽ được đóng dấu lên trán. Cho nên rất nhiều người tụ lại với nhau: để được tư vấn xem phải làm gì.
Tôi rùng mình và nghĩ rằng mình nên chạy trốn khỏi vùng đất kỳ lạ này càng nhanh càng tốt, bởi vì tôi, mặc dù là người Serb, cũng không quen được với việc thể hiện tinh thần hào hiệp như vậy, và tôi hơi bất an về điều đó!
Chủ nhà trọ cười nhân từ, vỗ vai tôi và nói một cách tự hào:
— Ôi ngài khách à, thế này đã đủ doạ ngài sợ rồi sao? Chẳng trách, ngài phải đi một chặng đường dài để tìm kiếm sự can đảm như của chúng tôi!
— Và ý của ông là gì? — Tôi rụt rè hỏi.
— Hỏi hay đấy! Ngài sẽ thấy chúng tôi dũng cảm như thế nào. Tôi đã bảo rồi, ngài còn phải đi một chặng đường dài mới tìm thấy lòng can đảm như của chúng tôi. Ngài đã đi xa và nhìn ngắm thế giới, nhưng tôi chắc chắn ngài chưa bao giờ thấy những anh hùng vĩ đại hơn chúng ta. Ta hãy đến đó cùng nhau. Tôi phải nhanh lên mới được.
Chúng tôi vừa định đi thì nghe thấy trước cửa một tiếng roi vụt.
Tôi liếc nhìn: một cảnh tượng ngoạn mục—một người đàn ông với chiếc mũ ba sừng sáng ngời trên đầu, mặc một bộ đồ lòe loẹt, đang cưỡi trên lưng một người đàn ông khác trong bộ quần áo dân thường nhưng có vẻ rất đắt tiền. Anh ta dừng lại trước nhà trọ và bước xuống.
Chủ nhà trọ đi ra ngoài, cúi đầu sát đất, rồi người đàn ông trong bộ đồ lòe loẹt đi vào nhà trọ đến một chiếc bàn được trang trí đặc biệt. Người mặc bộ đồ dân thường ở yên trước cửa nhà trọ và chờ đợi. Chủ nhà trọ cũng cúi thấp đầu với người đó.
— Thế này là thế nào? — Tôi hỏi chủ nhà trọ, vô cùng hoang mang.
— Chà, người vừa vào nhà trọ là một cảnh sát có cấp bậc cao, và người đàn ông này là một trong những công dân nổi tiếng nhất của chúng tôi, rất giàu có, và là một người yêu nước vĩ đại, — chủnhà thì thầm.
— Nhưng sao anh ta lại để người kia cưỡi trên lưng mình?
Chủ nhà trọ lắc đầu với tôi và chúng tôi bước sang một bên. Ông ta nở nụ cười khinh bỉ và nói:
— Chúng tôi coi đó là một vinh dự lớn xứng đáng hiếm hoi! — Ông ấy còn nói với tôi rất nhiều điều tuyệt vời cùng với đó, nhưng tôi rất phấn khích đến nỗi không vào đầu. Nhưng tôi đã nghe khá rõ những lời cuối ông ấy nói: — Đó là dịch vụ quốc gia của công dân mà mọi quốc gia khác vẫn chưa biết coi trọng!
—
Chúng tôi đến cuộc họp thì họ đang tiến hành bầu cử chủ tịch.
Nhóm đầu tiên đề cử một người đàn ông tên Kolb, nếu tôi nhớ đúng tên, là ứng cử viên cho chiếc ghế đó; nhóm thứ hai đề cử Talb và nhóm thứ ba có ứng cử viên riêng.
Có sự bối rối đáng sợ; mỗi nhóm muốn thúc tiến người của riêng mình.
— Tôi nghĩ không có ai tốt hơn Kolb cho vị trí chủ tịch của một cuộc họp quan trọng như vậy, — một giọng nói cất lên từ nhóm đầu tiên, — bởi vì tất cả chúng ta đều biết rất rõ đức tính là một công dân và can đảm tuyệt vời của ông ấy. Tôi không nghĩ có ai trong chúng ta ở đây có thể tự hào vì đã thường xuyên được cưỡi những người tầm cỡ hơn ông ấy…
— Anh là ai mà có quyền nói hả, — ai đó hét lên từ nhóm thứ hai. — Anh còn chưa bao giờ được một nhân viên cảnh sát cấp thấp nào cưỡi lên!
— Chúng tôi biết anh có đức tính gì, — ai đó từ nhóm thứ ba thét lên. — Anh có bao giờ chịu được một roi mà không gào lên đâu!
— Hãy thẳng thắn với nhau nào, các anh em! — Kolb lên tiếng. — Đúng là những người tầm cỡ đã cưỡi trên lưng tôi sớm nhất là mười năm trước; họ quất tôi và tôi không bao giờ khóc, nhưng cũng có thể có nhiều người xứng đáng hơn trong số chúng ta. Có lẽ có những người trẻ tốt hơn.
— Không, không, — những người ủng hộ ông kêu khóc.
— Chúng tôi không muốn nghe lời cấp cao lỗi thời nói đâu! Đã mười năm rồi từ khi Kolb được cưỡi, – những người nhóm thứ hai hét lên.
— Lớp trẻ có ưu thế, sóng sau xô sóng trước, — ai đó từ nhóm thứ ba nói với lên.
Đột nhiên không còn tiếng ồn nữa; mọi người lùi lại, dịch sang trái và phải để dẹp đường và tôi thấy một chàng trai trẻ khoảng ba mươi tuổi. Khi anh ta đến gần, tất cả cúi đầu xuống thấp.
— Đó là ai? — tôi thì thầm hỏi chủ nhà trọ.
— Cậu ta là nhà lãnh đạo nổi tiếng. Một chàng trai trẻ, nhưng rất hứa hẹn. Từ những ngày còn trẻ cậu ta đã tự hào vì đã mang Thị trưởng trên lưng ba lần. Cậu ta nổi tiếng hơn bất kỳ ai khác.
— Có lẽ họ sẽ bầu cho cậu ta? — Tôi hỏi.
— Chắc chắn quá rồi, bởi vì đối với tất cả các ứng cử viên khác – tất cả họ đều đã lớn tuổi, thời gian đã khắc dấu lên họ, mà mới hôm qua Thị trưởng vừa cưỡi cậu ta một lúc.
— Tên cậu ta là gì?
— Kleard.
Họ dành cho cậu ta một chỗ trang trọng.
— Theo tôi, — giọng Kolb phá vỡ bầu không khí yên lặng, — ta không thể tìm thấy một ai khác cho vị trí này tốt hơn Kleard. Cậu ấy còn trẻ, nhưng không ai trong số lớn tuổi chúng tôi có thể sánh với cậu ấy.
— Đã rõ, đã rõ!… Kleard vạn tuế!… — tất cả đồng thanh.
Kolb và Talb đưa cậu ta tới vị trí dành cho chủ tịch. Mọi người cúi đầu thật sâu, và im lặng.
— Cảm ơn các anh em, vì sự quan tâm sâu sắc của các anh em và vinh dự này mà mọi người đã nhất trí ban tặng cho tôi. Hy vọng của anh em đặt vào tôi bây giờ là quá tâng bốc. Thật không dễ dàng để điều khiển con tàu mơ ước của quốc gia trong những ngày trọng đại như vậy, nhưng tôi sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để bảo đảm cho sự tin tưởng của các anh em, thể hiện trung thực ý kiến của các anh em và xứng đáng với sự quan tâm cao mọi người dành cho tôi. Cảm ơn các anh em đã bầu tôi.
— Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô! — cử tri reo lên ầm ầm từ mọi phía.
— Và bây giờ, các anh em, cho phép tôi nói vài lời về sự kiện quan trọng này. Không dễ để chịu đựng những nỗi đau, những dằn vặt như vậy đang chờ sẵn; thật chẳng dễ dàng gì mà giơ trán ra chịu bỏng từ sắt nóng. Thật vậy, không – chúng là những nỗi đau mà không phải người đàn ông nào cũng có thể chịu đựng được. Hãy mặc những kẻ hèn nhát run rẩy, hãy mặc chúng sợ hãi, còn chúng ta không được quên trong giây lát rằng chúng ta là con trai của tổ tiên dũng cảm, dòng máu cao quý đó chảy trong huyết quản của chúng ta, dòng máu anh hùng của những người ông, những hiệp sĩ vĩ đại đã từng chết mà không hề chớp mắt vì tự do và vì lợi ích của tất cả chúng ta, con cháu của họ. Sự đau khổ của chúng ta, nếu so với sự đau khổ của họ, là quá nhẹ nhàng – chúng ta sẽ cư xử như thành viên của một đám người thoái hóa và hèn nhát trong khi ta đang sống tốt hơn bao giờ hết ư? Từng người yêu nước chân chính, tất cả những ai không muốn khiến đất nước phải xấu hổ trước tất cả thế giới, sẽ chịu đựng nỗi đau này như một người đàn ông và một anh hùng.
— Đã rõ! Đã rõ! Kleard vạn tuế!
Có một số diễn giả nhiệt thành sau Kleard; họ khuyến khích những người sợ hãi và lặp đi lặp lại ít nhiều những gì Kleard đã nói.
Sau đó, một ông già gầy gò, với khuôn mặt nhăn nheo, tóc và râu trắng như tuyết, yêu cầu được lên tiếng. Đầu gối ông run lên vì tuổi tác, đôi tay run rẩy, lưng ông còng xuống. Giọng ông khàn khàn, đôi mắt lấp lánh những giọt nước mắt.
— Các cháu, — Ông bắt đầu, với những giọt nước mắt lăn dài trên đôi gò má nhợt nhạt, nhăn nheo và rơi xuống bộ râu trắng, — Ông khốn khổ và rồi sẽ chết sớm thôi, nhưng ông thấy rằng các cháu không nên cho phép nỗi hổ thẹn đó áp lên mình. Ông một trăm tuổi rồi, và ông đã sống cả đời mà không cần đóng dấu!… Tại sao bây giờ phải ấn con dấu nô lệ lên mái đầu trắng mệt mỏi của ông chứ?…
— Đả đảo lão già bất lương! – Chủ tịch gào lên.
— Đả đảo lão! — những người khác hét lên.
— Lão già hèn nhát!
— Không những không khuyến khích ngươig trẻ, lão còn làm mọi người sợ hãi!
— Lão nên xấu hổ về mái tóc hoa râm của lão! Lão đã sống đủ lâu mà vẫn còn sợ hãi – chúng ta, những người trẻ tuổi hơn luôn can đảm hơn…
— Đả đảo lão hèn nhát!
— Quăng lão ra!
— Đả đảo lão!
Một đám đông những người trẻ yêu nước dũng cảm giận dữ xông vào ông già và bắt đầu đẩy, kéo và đá ông trong cơn thịnh nộ.
Họ cuối cùng để ông đi vì đã lớn tuổi – nếu không họ sẽ ném đá ông đến chết.
Tất cả họ đều cam kết ngày mai sẽ dũng cảm và thể hiện mình xứng đáng với danh dự và vinh quang của quốc gia.
Mọi người rời cuộc họp theo lề lối trật tự. Khi sắp chia tay họ nói:
— Ngày mai ta sẽ biết ai là ai!
— Ta sẽ thấy rõ ai là thùng rỗng kêu to!
— Đã đến lúc người xứng đáng tách mình khỏi những người không xứng đáng, để mọi kẻ bất lương không thể ba hoa về trái tim dũng cảm!
—
Tôi trở lại nhà trọ.
— Ngài đã thấy chúng tôi được sinh ra cùng gì chưa? — chủ nhà trọ hỏi tôi một cách tự hào.
— Hẳn là rồi, — Tôi máy móc trả lời, cảm thấy sức mạnh đã rời bỏ cơ thể và đầu tôi đang ù lên với những ấn tượng lạ.
Trong chính ngày đó tôi đọc được trên tin tức của họ một bài báo có tiêu đề như sau:
— Hỡi các công dân, đã đến lúc dừng khoe khoang và vênh váo vô ích giữa chúng ta; đã đến lúc ngừng chau chuốt những ngôn từtrống rỗng mà ta sử dụng để truyền bá nhằm thể hiện những đức tính và công lao tưởng tượng của chúng ta. Đã đến lúc, hỡi các công dân, để thử thách lời nói của chúng ta và cho thấy ai thực sự xứng đáng và ai không! Nhưng ta tin rằng trong chúng ta không có những kẻ hèn nhát đáng xấu hổ, những người sẽ bị buộc đưa đến nơi đóng đâu được chỉ định. Mỗi người trong chúng ta, những ai cảm thấy trong huyết quản của mình là giọt máu cao quý của tổ tiên hãy đấu tranh để trở thành một trong những người đầu tiên chịu đựng nỗi đau và thống khổ, tự hào và lặng lẽ, vì đây là nỗi đau thánh thiện, đó là sự hy sinh vì lợi ích của đất nước và vì phúc lợi của tất cả chúng ta. Tiến lên, hỡi các công dân, cho ngày mai là ngày thử thách cao quý!…
—
Chủ nhà trọ của tôi đã đi ngủ ngay hôm đó sau cuộc họp để hôm sau đến nơi chỉ định sớm nhất có thể. Thế nhưng nhiều người khác còn đi thẳng đến Tòa thị chính để càng gần đầu hàng càng tốt.
Ngày hôm sau tôi cũng đến Tòa thị chính. Mọi người đều ở đó – trẻ và già, nam và nữ. Một vài bà mẹ bế con nhỏ trong vòng tay để chúng có thể được ấn nhãn hiệu nô lệ, được coi là danh dự, và từ đó sẽ có quyền cao hơn cho các vị trí cao trong công vụ.
Có vài pha xô đẩy và chửi thề (như thế họ khá giống người Serb chúng tôi, và không hiểu sao tôi vui mừng vì thế), và mọi người đều cố gắng là người đầu tiên đứng ngay cửa. Một số thậm chí còn nắm cổ người khác.
Người sẽ đóng dấu là một công chức đặc biệt mặc bộ đồ trắng trang trọng, người đó đang mắng chửi người dân:
— Đừng sốt ruột, vì Chúa, ai rồi cũng đến lượt — mọi người không phải là động vật, ta có thể xoay xở mà không cần xô đẩy nhau.
Đóng dấu bắt đầu. Một người kêu lên, một người khác chỉ biết rên rỉ, nhưng theo như khi tôi còn ở đó quan sát thì không ai có thể chịu đựng mà không kêu lên.
Không thể chịu đựng được sự tra tấn này quá lâu, nên tôi trở về nhà trọ, khi về thấy một số họ đã ở đó, đang ăn uống.
— Thế là xong! — một người lên tiếng.
— Chà, bọn mình không hét lên mấy, thế mà Talb gào lên như một con lừa!… — người khác nói.
— Ông thấy Talb của ông như nào rồi đấy, thế mà hôm qua ông còn muốn hắn lên làm chủ tịch cuộc họp.
— Ấy, thì ai mà ngờ chứ!
Họ nói chuyện, rên rỉ vì đau đớn và quằn quại, nhưng cố gắng che giấu nó với nhau, vì mỗi người đều xấu hổ nếu bị cho là hèn nhát.
Kleard ghê tởm chính mình, bởi cậu ta đã rên rỉ, và một người đàn ông tên Lear chính là anh hùng vì anh ta yêu cầu đóng tới hai con dấu lên trán mà không hề phát ra âm thanh đau đớn. Cả thị trấn đang bàn tán vô cùng tôn trọng về anh ta.
Một số bỏ chạy, nhưng bị mọi người coi thường.
Vài ngày sau, người có hai con trên trán bước đi ngẩng cao đầu, với phẩm giá và lòng tự trọng, đầy vinh quang và niềm tự hào, và bất cứ nơi nào anh ta đi, mọi người đều cúi đầu ngả mũ chào người anh hùng của ngày hôm đó.
Đàn ông, phụ nữ và trẻ em chạy theo anh ta trên đường để nhìn người đàn ông vĩ đại nhất đất nước. Bất cứ nơi nào anh đi đều phát ra lời thì thầm phát ra do kinh sợ: ‘Lear, Lear!… Là anh ấy kìa! Là người anh hùng không gào thét, người không phát ra âm thanh ào trong khi đóng hai con dấu lên trán!’ Anh ấy xuất hiện trên tiêu đề các tờ báo, được ca ngợi và tôn vinh.
Và anh đã xứng đáng với tình yêu của mọi người.
—
Khắp nơi tôi đều nghe những lời khen ngợi như vậy, và tôi bắt đầu cảm thấy dòng máu Serbia cổ xưa, quý phái chảy trong huyết quản mình, Tổ tiên của chúng tôi là những anh hùng, họ chết vì bị đóng cọc để chiến đấu cho tự do; chúng tôi cũng có quá khứ anh hùng và Kosovo của riêng mình. Tôi hồi hộp với niềm tự hào dân tộc và phù hoa, háo hức cho thấy dân tộc tôi dũng cảm như thế nào và lao đến Tòa thị chính và hét lên:
— Sao các người lại ca ngợi Lear?… Các người chưa từng thấy những anh hùng thực sự! Hãy đến và tự mình xem dòng máu Serbia cao quý như thế nào! Không phải là hai, mà hãy đóng mười con đâu lên đầu tôi!
Người công chức trong bộ đồ trắng đưa con dấu đến gần trán tôi thì tôi bắt đầu … tỉnh giấc.
Tôi xoa xoa trán mình trong sợ hãi và vượt qua chính mình, tự hỏi về những điều kỳ lạ xuất hiện trong giấc mơ.
— Mình suýt nữa thì làm lu mờ vinh quang gã Lear của họ, — tôi nghĩ hài lòng, rồi xoay người lại, tôi rất tiếc vì giấc mơ của mình chưa kết thúc trọn vẹn.
Tại Belgrade, 1899
Cho Dự án “Radoje Domanovic” được dịch bởi Lê Toàn, 2020
Lý do của một con bò Serbia bình thường
Rất nhiều điều kỳ diệu xảy ra trong thế giới này, và đất nước chúng ta, như nhiều người nói, tràn ngập những điều kỳ diệu đến mức mà chính những điều kỳ diệu không còn là kỳ quan nữa. Ở đây có những người trên những vị trí rất cao mà không nghĩ gì cả, và như một sự bù trừ, hoặc có thể vì một số lý do khác, một con bò bình thường của nông dân, không khác gì so với những con bò Serbia khác, bắt đầu suy nghĩ. Có Chúa mới biết chuyện gì đã xảy ra khiến con vật mưu trí này dám nhận lấy một nỗ lực mong manh như vậy, đặc biệt là vì đã được chứng minh rằng ở Serbia, công việc suy nghĩ đáng tiếc này chỉ đem lại cho bạn sự bất đồng. Vậy giờ ta hãy nói rằng con quỷ nhỏ đáng thương này, với tất cả sự ngây thơ của nó, thậm chí không biết rằng nỗ lực này không mang lại ích lợi gì ở quê nhà của nó cả, cho nên tôi sẽ không khuyến khích thêm quyền công dân cho nó. Nhưng tại sao một con bò nên suy nghĩ vẫn là điều bí ẩn, nó không phải là cử tri, cũng không phải là ủy viên hội đồng, càng không phải dân làng, không được bầu làm phó trong bất kỳ hội nghị bò nào, hoặc thậm chí (nếu nó đạt đến một độ tuổi nhất định) làm thượng nghị sĩ. Và dù linh hồn đáng thương ấy có từng mơ ước trở thành một bộ trưởng nhà nước ở bất kỳ quốc gia trâu bò nào, nó nên biết rằng lẽ ra phải ngược lại, rằng nó nên hạn chế suy nghĩ ít nhất có thể, giống những bộ trưởng xuất sắc ở một số đất nước hạnh phúc hơn ngoài kia, mặc dù đất nước chúng ta chưa đến nỗi may mắn như thế. Cho đến cùng, tại sao chúng ta phải quan tâm xem vì sao một con bò ở Serbia lại nhận lấy nỗ lực mà con người đã bỏ rơi cơ chứ? Ngoài ra, có thể việc nó bắt đầu suy nghĩ là do một số bản năng tự nhiên của mình.
Thế thì, nó là loại bò gì? Một con bò bình thường như động vật học đã dạy, có đầu, cơ thể và tứ chi, giống như tất cả những con bò khác; nó kéo chiếc xe đẩy, gặm cỏ, liếm muối, nhai lại và ăn. Tên nó là Sivonja, một con bò xám.
Và nó bắt đầu suy nghĩ như sau. Một ngày nọ, chủ nhân của nó la mắng nó và bạn thân nó, Galonja, rồi chất một số cọc gỗ ăn cắp lên xe đẩy và đưa ra thị trấn để bán. Gần như ngay lập tức khi vào thị trấn, ông ta bán những chiếc cọc gỗvà sau đó tháo ách của Sivonja cùng bạn bè của nó ra, móc sợi xích nối với ách, ném một bó gai dầu ra trước mặt chúng, rồi vui vẻ đi vào một quán rượu nhỏ để xả hơi bằng chút đồ uống. Trong thị trấn đang diễn ra lễ hội, vì vậy đàn ông, phụ nữ và trẻ em qua lại đông đúc từ mọi phía. Galonja, trong mắt những con bò khác thì nó hơi ngớ ngẩn, chẳng nhìn vào đâu cả, thay vào đó, nó đắm đuối ăn bữa trưa của mình một cách nghiêm túc, no căng một bụng rồi, nó kêu be be một chút vì thích thú, rồi nằm xuống, ngủ gật vô tư lự. Tất cả những người đi ngang qua đều chẳng phải điều mà nó bận tâm. Nó cứ gật gù và nhai lại một cách yên bình (thật đáng tiếc nó không phải là con người, nó có tất cả tố chất thăng tiến trong sự nghiệp). Nhưng Sivonja không nuốt nổi miếng nào. Đôi mắt mơ màng và nét mặt buồn bã của nó thoạt nhìn cho thấy đây là một con bò biết suy nghĩ với một tâm hồn ngọt ngào, ấn tượng. Mọi người, những người Serb, đang đi ngang qua, tự hào về quá khứ huy hoàng của họ, tên tuổi của họ, quốc gia của họ, và niềm tự hào này thể hiện ở thái độ và tốc độ nghiêm nghị của họ. Sivonja quan sát tất cả những điều này, và tâm hồn nó đột nhiên bị nỗi buồn và nỗi đau do sự bất công to lớn gặm nhấm, và nó chẳng thể làm gì khác ngoài khuất phục trước một cảm xúc trào dâng, đột ngột và mạnh mẽ như vậy; nó buồn bã, đau đớn, nước mắt lưng tròng. Và trong nỗi đau tột cùng, Sivonja bắt đầu suy nghĩ:
– Chủ nhân của mình và đồng bào của ông ấy, những người Serb, quá tự hào về điều gì thế? Tại sao họ lại ngẩng cao đầu và nhìn loiaf chúng mình với sự kiêu ngạo và khinh bỉ? Họ tự hào về quê hương của họ, tự hào rằng số phận thương xót đã cho họ được sinh ra ở Serbia. Mẹ mình cũng sinh ra mình ở Serbia và Serbia không chỉ là quê hương của mình mà cả cha mình, và tổ tiên mình nữa, giống như họ, tất cả cùng nhau, đến vùng đất này từ quê hương Slav cũ. Nhưng không ai trong chúng mình cảm thấy tự hào về điều đó, chúng mình chỉ tự hào về khả năng kéo một vật nặng hơn lên dốc; cho đến hôm nay, chẳng bao giờ có một con bò nói với một con bò Đức nào rằng: “Anh muốn gì ở tôi, tôi là một con bò Serbia, quê hương tôi là đất nước Serbia tự hào, tất cả tổ tiên của tôi đã được sinh ra tại đây, và ở đây, trên vùng đất này, là những ngôi mộ của cha ông tôi. “Chúa trời đã răn, chúng mình không bao giờ tự hào về điều này, không bao giờ điều đó xẹt qua tâm trí chúng mình, thế mà họ lại tự hào vì thế. Những người kỳ lạ!
Bị cuốn theo những suy nghĩ này, con bò buồn bã lắc đầu, rung chuông trên cổ và kêu be be:
– Mình đừng ngớ ngẩn thế nữa! Ăn uống, chơi đùa, tích trữ chất béo đi, tự nhìn xương sườn của mình đang nhô ra đi; Nếu suy nghĩ là điều tốt thì con người đã chẳng nhường lại cho loài bò chúng ta. Làm gì có chuyện chúng ta sẽ may mắn như vậy!
Sivonja thương hại nhìn đồng loại, quay đầu khỏi cậu bạn và đắm chìm trong suy nghĩ.
– Họ tự hào về quá khứ huy hoàng của mình. Họ có Cánh đồng Kosovo, Trận chiến Kosovo. Có là gì, chẳng phải ngay cả khi ấy tổ tiên của mình đã kéo xe chở đầy thức ăn và vũ khí đấy sao? Nếu không có loài chúng mình, con người sẽ phải tự mình làm việc đó. Sau đó là cuộc nổi dậy chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ. Một nỗ lực to lớn, cao cả, nhưng ai đã có mặt vào lúc đó nào? Có phải những tên ngu đần mũi cao, sải bước tự hào đi qua mặt mình như thể đó là công đức của họ không, họ đã phát động cuộc nổi dậy sao? Đây, lấy chủ của mình làm ví dụ nhé. Ông ta cũng rất tự hào và khoe khoang về cuộc nổi dậy, đặc biệt là với việc ông cố của ông ta đã chết trong cuộc chiến giải phóng như một anh hùng thực sự. Thế đó là công lao của chủ nhân mình ư? Ông cốcủa ông ta có quyền tự hào, chứ không phải là ông ta; ông cố của ông ấy đã chết để chủ nhân của mình, hậu duệ của ông ấy có thể được tự do. Thế nên ông ta giờ được tự do, và ông ta sử dụng tự do của mình như nào thế này? Ông ta ăn cắp cọc gỗ của người khác, ngồi trên xe đẩy, còn mình phải kéo cả ông ta lẫn cọc gỗ trong khi ông ta ngủ trên yên cương. Bây giờ khi đã bán hết cọc gỗ, thì ông ta đi uống rượu, không làm gì cả và tự hào với quá khứ huy hoàng của mình. Và có bao nhiêu tổ tiên của mình đã bị tàn sát trong cuộc nổi dậy để nuôi sống các chiến binh? Và chẳng phải tổ tiên của mình lúc đó đã kéo xe vũ khí, đại bác, thực phẩm và đạn dược đấy sao? Tuy nhiên, chúng mình không tự hào nhờ giá trị của họ bởi vì chúng mình chẳng thay đổi gì cả; chúng mình vẫn làm tốt bổn phận cho đến hôm nay, giống như tổ tiên chúng mình đã làm, kiên nhẫn và tận tâm.
Họ tự hào về tổ tiên khốn khổ và năm trăm năm nô lệ của họ. Thân nhân của mình đã chịu đựng trong suốt thời gian loài chúng mình tồn tại, và ngày nay chúng mình vẫn đau khổ và bị bắt làm nô lệ, nhưng chúng mình không gào thét đến khản giọng vì điều đó. Họ nói rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đã tra tấn, tàn sát và xúi giục họ; vậy ư, còn tổ tiên của mình đã bị giết bởi cả người Serb và người Thổ Nhĩ Kỳ, bị nướng, và phải trải qua tất cả các loại tra tấn.
Họ tự hào về tôn giáo của họ, nhưng họ lại chẳng tin vào gì hết. Mình và giống loài của mình đã làm gì mà không được các con chiên chấp nhận? Tôn giáo của họ răn dạy “không trộm cắp” và đây chủ nhân của mình thì ăn cắp và uống rượu từ tiền mà ông ta có được nhờ ăn cắp. Tôn giáo của họ răn dạy hãy yêu thương hàng xóm, thế mà họ chỉ làm hại nhau. Đối với họ, một con người tốt nhất, một tấm gương về đức hạnh, là người không làm hại gì cả, và tất nhiên không một ai xem việc làm việctốt là tốt, chỉ khi không làm điều gì tổn hại mới được coi là tốt. Tấm gương đức hạnh của họ thấp đến thế đấy, đến mức vô dụng hơn bất kỳ món đồ vô dụng không gây hại nào khác.
Con bò thở dài, và tiếng thở dài của nó thổi tung bụi đường.
– Vậy thì – con bò tiếp tục những suy nghĩ buồn bã – trong trường hợp này, chẳng phải mình và giống loài của mình còn tốt hơn tất cả những người đó sao? Mình chưa bao giờ giết người, chưa bao giờ nói xấu ai, không ăn cắp bất cứ thứ gì, không cấm đoán người vô tội khỏi dịch vụ công cộng, không tham nhũng kho bạc nhà nước, không tuyên bố phá sản giả, mình không bao giờ trói xích hoặc bắt giữ những người vô tội, chưa bao giờ nói xấu bạn bè của mình, chưa bao giờ đi ngược lại các nguyên tắc của loài bò, mình không làm chứng sai, chưa bao giờ làm bộ trưởng của một bang và không bao giờ gây hại cho đất nước, không chỉ không gây hại, mình thậm chí còn làm việc tốt cho những người làm hại mình. Mẹ sinh ra mình và ngay lập tức, những kẻ độc ác đó thậm chí còn không cho mình bú sữa mẹ. Thiên Chúa ít nhất đã tạo ra cỏ cho loài bò chúng mình, không phải cho con người, thế mà họ cũng tước đoạt cỏ của chúng mình. Tuy nhiên, bên cạnh tất cả những đánh đập, chúng mình vẫn kéo xe cho con người, cày ruộng để họ có bánh mì mà ăn. Nhưng không ai thừa nhận công lao mà chúng mình đóng góp cho quê hương…
– Hoặc lấy nhịn ăn làm ví dụ; đối với con người, tôn giáo quy định nhịn ăn trong tất cả ngày lễ, nhưng họ lại còn không sẵn sàng chịu nhịn ăn một chút như vậy, trong khi mình và giống loài của mình phải nhịn ăn cả đời, kể từ khi lần đầu tiên cai sữa mẹ.
Con bò cúi đầu xuống như thể đang lo lắng, rồi lại ngẩng đầu lên, khịt mũi giận dữ, và dường như có thứ gì đó quan trọng đang quay lại trong tâm trí nó, hành hạ nó; đột nhiên, nó vui mừng be be:
– Ồ, giờ mình biết rồi, phải là thế – và nó tiếp tục suy nghĩ, – chính là như thế; họ tự hào về tự do và quyền công dân của họ. Mình cần phải tập trung vào đó.
Và nó suy nghĩ, suy nghĩ, nhưng không thể hiểu được.
– Những quyền đó của họ là gì? Nếu cảnh sát ra lệnh cho họ bỏ phiếu, họ bỏ phiếu, nếu là như thế, chúng mình chỉ cần dễ dàng ụm bò: “Bầu đi…i…i…i!” Và nếu họ không được lệnh, họ không dám bỏ phiếu, hoặc thậm chí học đòi chính trị, giống hệt chúng mình. Họ cũng bị đánh đập trong tù, ngay cả khi hoàn toàn vô tội. Ít nhất thì chúng mình còn được ụm bò và vẫy đuôi, còn họ thậm chí không có chút can đảm công dân nào.
Và ngay lúc đó, chủ nhân của nó bước ra khỏi quán rượu. Say khướt, loạng choạng, đôi mắt mờ đi, lầm bầm vài lời khó hiểu, ông ta lẩm bẩm bước về phía xe đẩy.
– Hãy trông, xem con cháu tự hào này sử dụng tự do giành được bằng máu của tổ tiên họ như thế nào? Phải, chủ nhân của mình là một kẻ say rượu và là một tên trộm, nhưng còn những người khác sử dụng tự do này như thế nào? Chỉ mãi nhàn rỗi và tự hào về quá khứ và công đức của tổ tiên họ, mà tổ tiên họ có nhiều đóng góp không kém mình. Và loài bò chúng mình, vẫn chăm chỉ lao động và hữu ích như tổ tiên chúng mình. Chúng mình là bò, nhưng chúng mình vẫn có thể tự hào về công việc và công đức gian khổ của chúng mình ngày hôm nay.
Con bò thở dài và sẵn sàng đưa cổ ra đeo ách.
Tại Belgrade, 1902
Cho Dự án “Radoje Domanovic” được dịch bởi Lê Toàn, 2020